Hiện nay, việc nuôi mèo ở trong nhà trở nên phổ biến trong trên khắp thế giới. Cho dù là chúng ta nhận nuôi cưu mang những chú mèo hoang hay sở hữu những chú mèo quý hiếm đắt tiền thì chúng luôn là một thành viên trong gia đình.
Và bài viết này sẽ cung cấp thêm thông tin cho các chủ nuôi về những bệnh do virus thường gặp trên mèo. Khi thấy mèo có những biểu hiện bất thường của các bệnh dưới đây thì có thể đưa ra phương án xử lý phù hợp.
Giảm bạch cầu
Bệnh giảm bạch cầu hay bệnh viêm ruột truyền nhiễm ở mèo (FIE) do parvovirus ở mèo gây ra (FPV). Tên gọi giảm bạch cầu phổ biến hơi trong ngành thú y vì chỉ điểm rõ nhất của bệnh là số lượng bạch cầu giảm mạch.
Bệnh này vô cùng nguy hiểm, lây lan nhanh và tỉ lệ chết rất cao đặc biệt đối với mèo con và mèo chưa tiêm phòng. Đây cũng là mối đe dọa rất lớn trong các trạm cứu hộ chó mèo và những trang trại mèo.
Ở mèo con trên ba hoặc bốn tuần tuổi và ở mèo trưởng thành, virus gây ra bệnh viêm dạ dày ruột rất nặng, sau thời gian ủ bệnh từ năm đến chín ngày. Những con mèo bị nôn mửa, xuất huyết cấp tính và tiêu chảy và một số con mèo chết nhanh chóng.
Virus gây tổn thương nghiêm trọng cho niêm mạc ruột và cũng di chuyển qua máu đến tủy xương và các tuyến bạch huyết. Sự nhân lên của virus tại các vị trí này dẫn đến sự suy giảm rõ rệt của các tế bào bạch cầu.
Mèo mẹ mang thai mắc giảm bạch cầu có thể lây lan sang cho bào thai, làm cản trở sự phát triển tiểu não của bào thai. Khi sinh ra chúng sẽ bị mất phương hướng và khó vận động bình thường.
Bệnh viêm phúc mạc truyền nhiễm FIP
Viêm phúc mạc truyền nhiễm ở mèo (FIP) là một bệnh do virus gây ra bơi một số chủng coronavirus ở mèo. Hầu hết cá chủng corona (FeCV) ở mèo được tìm thấy trong đường tiêu hóa và không gây bệnh đáng kể.
Nhưng một trong số đó sẽ có nguy cơ phát triển thành FIP. Đa số trường hợp là mèo con, với khoảng 70% trường hợp được chẩn đoán ở mèo dưới 1 tuổi rưỡi và 50% trường hợp xảy ra ở mèo dưới 7 tháng tuổi.
Có hai dạng FIP chính, dạng tràn dịch hoặc “ướt” và dạng không tràn dịch hoặc “khô”. Cũng cần lưu ý rằng các trường hợp FIP tràn dịch có thể phát triển thành dạng không tràn dịch và ngược lại.
Các dấu hiệu của dạng FIP ướt thường tiến triển tương đối nhanh và bao gồm các dấu hiệu không đặc hiệu kết hợp với sự tích tụ chất lỏng trong các khoang cơ thể, bao gồm bụng và ngực (khoang ngực). Những con mèo bị FIP có thể có biểu hiện bụng phệ do tích tụ chất lỏng trong bụng và nếu sự tích tụ chất lỏng quá mức, mèo có thể khó thở bình thường.
Bệnh suy giảm miễn dịch FIV
Ở những con mèo bị nhiễm bệnh, FIV tấn công hệ thống miễn dịch, khiến con mèo dễ bị nhiễm nhiều bệnh khác. Mặc dù những con mèo bị nhiễm FIV có thể trông bình thường trong nhiều năm, nhưng cuối cùng chúng sẽ bị suy giảm miễn dịch, khiến vi khuẩn, vi rút, động vật nguyên sinh và nấm thường vô hại được tìm thấy trong môi trường hàng ngày có khả năng gây ra các bệnh nghiêm trọng.
Phương thức lây truyền chính của FIV là qua vết thương do mèo bị nhiễm bệnh cắn. Vậy nên khi ở chung có tiếp xúc chéo phân, nước tiểu hay ăn uống chung cũng không đáng ngại. Trường hợp dễ mắc nhất là những chú mèo hoang hoặc mèo đực chưa thiến ra ngoài đánh nhau dành bạn tình, lãnh thổ.
Giống như HIV ở người, FIV ở mèo không có thuốc điều trị đặc hiệu, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy mèo mắc FIV thường có tuổi thọ trung bình, miễn là chúng không bị nhiễm vi rút gây bệnh bạch cầu ở mèo.
Viêm đường hô hấp do Herpesvirus
Bệnh còn được gọi là viêm mũi khí quản do Herpesvirus ở mèo (FVR), là một bệnh truyền nhiễm do Herpesvirus type 1 (FHV-1) ở mèo gây ra. FVR là nguyên nhân chính gây ra bệnh đường hô hấp trên ở mèo và là nguyên nhân phổ biến nhất gây viêm kết mạc (viêm các mô xung quanh mắt, đặc biệt là lớp lót của mí mắt và mí mắt thứ ba).
Virus có thể lây nhiễm cho mèo ở mọi lứa tuổi. Tất cả những con mèo đã bị nhiễm FVR sẽ trở thành vật mang virus này. Khi mèo bị stress hoặc mắc các bệnh khác sẽ khiến virus có khả năng gây bệnh, và hầu hết trong số đó sẽ có triệu chứng nhiễm trùng đường hô hấp.
Các dấu hiệu điển hình của FVR liên quan đến mũi, cổ họng và mắt, bao gồm hắt hơi, nghẹt mũi, viêm kết mạc, chớp mắt nhiều, nheo mắt và chảy dịch từ mắt và mũi từ trong và chảy nước đến đặc và có mủ. Virus cũng có thể gây viêm giác mạc, hoặc viêm và nhiễm trùng giác mạc, dẫn đến loét giác mạc. Trong trường hợp nhiễm trùng mãn tính hoặc nghiêm trọng, viêm giác mạc có thể dẫn đến sẹo giác mạc hoặc ‘khô mắt’ mãn tính.
Trên đây là một số bệnh do virus thường gặp ở trên mèo, hi vọng bài viết này của Vet Equipment sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về triệu chứng từng bệnh để phát hiện kịp thời tránh những rủi ro không đáng có .